Học tập theo dự án, đôi khi được hiểu là học tập dựa trên vấn đề hoặc đơn giản là PBL, là một chiến thuật giảng dạy khoa học, mà đáng ngạc nhiên là có nguồn gốc từ giáo dục y khoa hiện đại. Dù khái niệm đó được đưa ra lần đầu tiên và giới thiệu bởi các nhà giáo dục vào đầu thế kỷ 20 (bao gồm, đáng chú ý là Maria Montessori), nó được giới thiệu lần đầu tiên như một chương trình giảng dạy chính thống ở trường y Canadian vào năm 1960. Nó từng bước được đưa vào lớp học K-12 bắt đầu vào những năm 1980, mặc dù trước năm 2012, ước tính chí có một phần trăm lớp học sử dụng phương pháp tiếp cận đó.
Tuy nhiên, kể từ đó, nhiều giáo viên áp dụng và nó ngày càng thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu và các nhà giáo dục quan tâm đến sự công bằng, mất mát kiến thức, giảng dạy ngôn ngữ cho người học, và phát triển lực lượng lao động thế kỷ 21 với mức độ cao về hiểu biết và năng lực khoa học.
Vì nhiều nghiên cứu hơn được thực hiện, PBL đã và đang cho thấy là có ảnh hưởng rộng hơn đến việc học của trẻ nhỏ và so với những gì mà các nhà phát triển kỳ vọng lúc ban đầu. Giữa nhiều lợi ích khác, nó đã chứng minh là có đóng góp vào việc học ngôn ngữ cũng như hiểu biết khoa học, học tập xã hội – cảm xúc, giải quyết vấn đề ở các chuyên môn khác, và các kỹ năng giao tiếp. Nghiên cứu gần đây là chỉ ra rằng nó giúp giảm khoảng cách trong học tập đối với nhóm đối tượng dân số chưa được phục vụ đầy đủ.
Hãy cùng khám phá PBL là gì, nó vận hành như thế nào trong lớp học, nghiên cứu nói gì về lợi ích của nó, và một số nguồn lực có sẵn cho các nhà lãnh đạo về chương trình giảng dạy, những người muốn áp dụng PBL vào trường học và hệ thống trường của họ.
Học tập theo Dự án trong Khoa học là gì?
Nói một cách đơn giản, học tập theo dự án là cách mà học sinh chủ động tham gia việc học bằng cách cùng giải quyết một câu hỏi thực tiễn hoặc một vấn đề trong thế giới thực. Nói một cách chính thức hơn, nó được định nghĩ là một phương pháp giảng dạy mà học sinh có được kiến thức và kỹ năng bằng cách làm việc trong một khoảng thời gian dài để điều tra và phản hồi cho một câu hỏi, vấn đề hoặc một thử thách thiết thực, hấp dẫn, và phức tạp.”
Dù PBL có thể dược áp dụng ở bất kỳ chuyên ngành nào, nó đặc biệt phù hợp với giảng dạy khoa học. Theo Dr. Josep Krajcik, một nhà nghiên cứu và giáo dục PBL hàng đầu tại Đại học Bang Michigan, nhận xét, “Trẻ nhỏ, đang tiếc, được giới thiệu [một cách truyền thống] về khoa hoạc như là một khối kiến thức. Nhưng khoa học còn hơn thế nhiều! Khoa học là tất cả về việc cố gắng tìm ra cách mọi thứ hoạt động.”
Chính xác thì PBL khác với giáo dục khoa học truyền thống như thế nào?
Theo một nghĩa nào đó, nó đảo ngược cách giảng dạy và tuân theo nguyên tắc “Ăn tráng miệng trước.” Trong giảng dạy truyền thống, giáo viên trình bày hiện tượng và khái niệm khoa học theo hình thức giảng bài, sau đó chứng minh bằng một thí nghiệm hoặc một dự án như một dạng phần thưởng hoặc “tráng miệng”, mà học sinh có thể tự tham gia hoặc đơn giản là quan sát.
Phương pháp tiếp cận này đỏi hỏi ít sự tham gia chủ động hoặc tư duy từ phía học sinh, mà chỉ đơn giản là tiếp thu thông tin được trình bày và, trong trường hợp làm dự án như các mô hình hoặc áp phích, một sản phẩm có thể mang tính sáng tạo nhưng không đòi hỏi truy vấn khoa học chủ động, tư duy phản biện, hoặc phối hợp. Phần thực hành của bài học, nếu có phần này, thì nhằm trình bày tài liệu đã được giảng giải và học từ trước, hơn là một quá trình khám phá.
PBL đảo ngược quá trình đó và làm cho dự án trở thành “bữa chính,” trình bày trước học sinh một vấn đề và cho các em thời gian cũng như công cụ để khám phá, hiểu các giới hạn và hạn chế của vấn đề, động nãy, thử nghiệm, và xây dựng một giải pháp hoặc tự đưa ra kết luận. Nó là một quá trình liên ngành, khi học sinh sdx thường cần áp dụng kiến thức nội dung và kỹ năng từ nhiều lĩnh vực học thuật vào dự án.
Khi các em áp dụng kiến thức và kỹ năng vào một bối cảnh mới và tham gia truy vấn, các em tham gia ở mức độ học thuật nghiêm ngặt giúp bồi đắp khả năng tư duy phản biện của các em. Và khi các em hoàn thành và trình bày các dự án của mình, các em phát triển một khả năng không phụ thuộc, tự ti, và sở hữu đối với sản phẩm của các em, đem lại một nền tảng vựng chắc cho việc học và làm việc trong tương lai.
Hơn nữa, ở PBL, quá trình cũng quan trọng như nội dung, vì học sinh đang học một số hành vi và kỹ năng quan trọng khi làm việc với nội dung. Cốt lõi của PBL là một tập hợp các hành vi cơ bản, gọi là bốn C:
Những kỹ năng này (sáng tạo, phối hợp, giao tiếp, và tư duy phản biện) có thể áp dụng tốt vượt ra ngoài phạm vi khoa học cũng như lớp học, đặt nền tảng cho nguồn lao động thế kỷ 21 có năng lực và một xã hội dân sự được trang bị tốt hơn để giải quyết các khác biệt của nó.
Học tập theo Dự án trông như thế nào trong Lớp học?
Như có thể mong đợi, tác dộng lên lớp học và vai trò của giáo viên là sâu sắc. Hãy em cách là một hoạt động PBL điển hình được lên cấu trúc.
Không giống các chiến lược giảng dạy khoa học truyền thống, việc tuân theo phương pháp tiếp cận PBL liên quan đến việc bắt đầu với một vấn đề hoặc một tình huống của thế giới thực và sau đó huấn luyện học sinh thông qua một quá trình khám phá khoa học hướng đến các giải pháp tiềm năng. Theo Dr. Kracjik nhận xết, “Ở nhiều khía cạnh, ọc tập theo dự án phản chiếu những gì các nhà khoa học làm, cố gắng trả lời một câu hỏi thực sự quan trọng hoặc tìm hiểu xem điều gì đang diễn ra ở một số hiện tượng.” Các bước trong quá trình này được mô tả như sau:
- Xác định vấn đề – Giáo viên trước nhất đặt ra một vấn đề thực tế cho học sinh, sử dụng các thành quả học tập từ chương trình giảng dạy để lựa chọn “câu hỏi định hướng” hpuf hợp để các em truy vấn. Phụ thuộc vào độ tuổi của học sinh, vấn đề có thể là phức tạp hoặc đòi khỏi nhiều bước làm việc tiếp theo, hoặc nó có thể khá đơn giản và được giải quyết hoặc hoàn thành trong một buổi học. Nó có thể liên quan đến một hiện tượng hoặc vấn đề toàn cầu hay khu vực, hay địa phương. Giáo viên kết nối vấn đề với các sự việc hoặc hiện tượng hàng ngày mà họ biết là quen thuộc thuộc hoặc hấp dẫn với học sinh của họ, và hướng dẫn cả lớp thảo luận về bản chất cũng như sắc thái của vấn đề cho đến khi thấy rõ là các em hiểu các rào cản và giới hạn của nó là gì.
- Lập kế hoạch và Chuẩn bị – Làm việc trong các nhóm phối hợp nhỏ, học sinh suy nghĩ về cách các em sẽ giải quyết vấn đề. Kế hoạch của các em nói chung bao gồm việc xác định các nguồn lực các em sẽ cần để hoàn thành dự án, cũng nwh thu thập thông tin và thực hiện nghiên cứu. Giáo viên tính toán các nhóm, hỗ trợ khi các em cần định hướng hoặc hỗ trợ, và đánh giá sự sẵn sàng của từng nhóm để bắt đầu triển khai kế hoạch hành động của các em.
- Triển khai – Ở bước này, học sinh áp dụng kiến thức và kỹ năng để triển khai các bước trong kế hoạch của các em. Giáo viên có thể hỗ trợ về hậu cần, khơi gợi tư duy phân tích hoặc tư duy ở trình độ cao hơn ở học sinh, hoặc hỗ trợ tương tác nhóm hoặc các vấn đề quản lý dự án, cũng như khích lệ học sinh sáng tạo, đổi mới, và chấp nhận rủi ro khi các em tìm giải pháp cho vấn đề mà các em đang gặp phải.
- Phản ánh và Đánh giá – Sau khi hoàn thành dự án, học sinh dành thời gian suy ngẫm về những gì các em đã học được, đánh giá phần thể hiện của các em, và đánh giá tính hiệu quả và tác động của dự án đối với vấn đề thực tế. Giáo viên sau đó đánh giá khách quan về kiến thức tích lũy được về chủ đề này.
- Chia sẻ kết quả – Thông thường quá trình này kết thúc bằng việc học sinh trình bày bài làm của mình với bạn cùng lớp, cộng đồng nhà trường, hoặc những người khác, chia sẻ về cả những gì các em đã học được và kết quả công việc của các em. Giáo viên đưa ra hướng dẫn về cách xây dựng bài thuyết trình, trình bày dữ liệu hiệu quả, và các kỹ năng giao tiếp xã giao.
Mặc dù các giai đoạn này sẽ khác nhau tùy theo dự án, phong cách giảng dạy của cá nhân giáo viên, và độ tuổi của học sinh, điều quan trọng là giáo viên cho phép thời gian phù hợp cho từng bước, tập hợp nguồn lực hiệu quả, và lập kế hoạch tiếp cận riêng để dẫn dắt các cuộc thảo luận về vấn đề và các giải pháp tiềm năng khi họ xây dựng kế hoạch bài học khoa học.
Các ví dụ Học tập theo Dự án
Có rất nhiều ý tưởng về lớp học khoa học PBL có sẵn trên mạng, đặc biệt là trên các trang dành riêng cho PBL. Một số nguồn tài nguyên tuyệt vời bao gồm Edutopia và Lucas Foundation. Các ví dụ về các hoạt động khoa học STEM bao gồm:
- Bốn giáo viên khác nhau (một giáo viên công nghệ, chuyên gia phương tiện thư viện, giáo viên toán, và giáo viên khoa học) phối hợp để đưa cho học sinh một dự án đa ngành: để sử dụng các kỹ năng ELA và STEM của các em để tạo nên hòn đảo nhân tạo và thể hiện kết quả trước các bạn cùng lớp.
- Một giáo viên lớp một giao cho học sinh của cô vai trò là phóng viên và yêu cầu các em khám phá người lớn làm gì trong cuộc sống mà họ trải qua khi lớn lên, sau đó trình bày lại theo nhiều cách khác nhau.
Học sinh lớp ba ở các lớp PBL do các nhà nghiên cứu Đại học Michigan đã làm việc trong bốn dự án suốt cả năm, giải quyết các câu hỏi thúc đẩy này:
‘Tại sao tôi thấy nhiều sóc, nhưng tôi không thể tìm thấy bất kỳ con khủng long nào.’
‘Làm thế nào chúng ta có thể giúp đỡ những con chim ở gần trường mình lớp lên và phát triển?’
“Làm thế nào tôi có thể thiếu kế đồ chơi chuyển động thú vị mà những bạn khác có thể tạo ra?’
‘Làm thế nào chúng ta có thể làm vườn cho cộng đồng để trồng cây lương thực và hoa màu?’
- Ở một lớp ba, học sinh làm việc với một “chương học Đồ chơi”, ở đó các em đã học các khái niệm về trọng lực, ma sát, lực đẩy, và hướng bằng cách thiết kế đồ chơi từ các vật thể đơn giản chẳng hạn như chai nước, ống hút, và hộp sữa giấy tái chế. Chương học kết thúc với việc các em thiết kế đồ chơi của riêng mình sử dụng lực từ hoặc lực điện.
- Học sinh khối bốn nghiên cứu về động đất từ góc độ của người điều phối dịch vụ khẩn cấp, đưa ra khuyến nghị để giúp thành phố an toàn hơn khi xảy ra động đất.
- Một giáo viên pháp y, khoa học môi trường, khoa học trái đất, và khoa học vật lý lớp 9-12 giao cho học sinh của mình nhiệm vụ phát triển kế hoạch sức khỏe cá nhân hóa cho một cộng đồng khép kín có 20 người trưởng thành, với vai trò là chuyên gia dinh dưỡng của họ. Để làm được như vậy, các em đã cần học về tỷ lệ trao đổi chất, sau đó ước tính lượng calo và sử dụng tháp thức ăn để xây một kế hoạch cung cấp thực phẩm cho từng người và một danh mục mua sắm để cung ứng.
Học sinh ở độ tuổi trung học cơ sở và trung học phổ thông tại một trường học đã xử lý một vài dự án được kéo dài xuyên suốt năm học:
- Khám phá hàng hải: học sinh khám phá văn hóa và lịch sử hàng hải thông qua các chuyến thăm đến một bảo thàng hàng hải gần đó và được giao nhiệm vụ lựa chọn một chuyến tàu cụ thể, nghiên cứu về chuyến tàu đó, và tạo ra một bản trưng bày bảo tàng của riêng mình. Các em đã tạo một bản nhật ký của thuyền trưởng, bao gồm việc lập bản đồ các chuyến tàu và kính lục phân hoạt động được của chính mình.
- Quy hoạch đô thị: Ở các lớp khoa học con người, học sinh được thử thách quan sát và phỏng vấn các thành viên trong cộng đồng của mình và xác định vấn đề địa phương lớn nhất. Sau đó các em xây dựng các giải pháp thực tế mà các em trình bày trước một hội đồng nhà quy hoạch đô thị chuyên nghiệp.
- Môi trường sống trong sở thú: sau chuyến thăm tới sở thú địa phương, một nhóm học sinh áp dụng các quan sát của mình và kiến thức có được từ lớp học để tạo các bản kế hoạch môi trường sống dựa trên nghiên cứu, trình bày cho các nhà động vật học chuyên nghiệp.
- Giải mã: thay vì các bài học toán thông thường, học sinh vào vai một nhân viên an ninh được giao nhiệm vụ giải mã một thông diệp, đổi lại là mã hóa một thông điệp mới, và trình bày những phát hiện của mình cho cả lớp.
- Tư vấn tài chính: học sinh vào vai một cố vấn tài chính và quyết định cách phân bổ một khoản tiền theo cách giúp tạo nên lợi ích lớn nhất cho cộng đồng. Sau đó các em trình bày các giải pháp của mình và giải thích lý do của mình trước lớp.
Tầm quan trọng của Phát triển Chuyên môn
Như đã thấy rõ từ những ví dụ này, PBL đòi hỏi giáo viên phải đảm nhiệm một vài trò rất khác so với phương pháp giảng dạy truyền thống được dạy ở hầu hết các chương trình giáo dục và thực hành. Blogger giáo dục Maggie O’Brien nhận xét rằng “vai trò của giáo viên chuyển từ người truyền tải nội dung sáng người quản lý dự án/người dẫn dắt.”
Điều này đòi hỏi một sự chuẩn bị khác. Ví dụ, khi lập kế hoạch bài học khoa học, giáo viên phải chọn một dự án với mức độ phức tạp phù hợp, cho phép học sinh đạt được thành quả học tập mong muốn, và liên quan đến mối bận tâm của học sinh. Họ có thể cần chuẩn bị nguồn lực, bao gồm sử dụng ác nhân viên trường học khác chẳng hạn như chuyên viên truyền thông, lập kế hoạch về cách họ sẽ giới thiệu vấn đề, và dự đoán khó khắn hoặc trở ngại mà học sinh có thể gặp phải trong quá trình khám phá của mình. Cuối cùng, giáo viên có thể cần chuẩn bị cho học sinh làm
việc theo định dạng PBL: các em có thể cần thực hành quá trình theo nhóm như lắng nghe chủ động, thảo luận quy tắc ứng xử, và cân nhắc các vai trò khác nhau hoặc các nhiệm vụ trong một nhóm và mức độ thoải mái khi quản lý những điều phát sinh.
Một rủi ro khi sử dụng PBL mà không có sự chuẩn bị đầy đủ là học sinh sẽ thích thú quá trình dó, nhưng không học được nội dung và các kỹ năng mà các em được kỳ vọng là tiếp thu được. Rõ ràng, việc triển khai PBL để học sinh không chỉ tham gia mà còn đáp ứng các mục tiêu học tập về nội dung và quá trình học đòi hỏi phải tăng cường một bộ cơ bắp giảng dạy khác. Zachary Herrmann, một nhà nghiên cứu của Địa học Pennsylvania và đồng tác giả của Các Thực hành Cốt lõi của Học tập theo Dự án: Hướng dẫn cho Giáo viên và Lãnh đạo, viết rằng Giáo viên có thể thấy công việc làm cho học tập theo dự án trở nên thành công là “quá sức và đáng sợ.” Herrmann và đồng nghiệp của ông đã nghiên cứu các giáo viên áp dụng PBL và phát hiện ra rằng hầy hết các các giáo viên thành công nhất áp dụng ba thực hành quan trọng:
- Họ chú ý khơi gợi tư duy bậc cao của học sinh, thử thách các em với các câu hỏi “tại sao” và yêu cầu các em tổng hợp và bối cảnh hóa.
- Họ liên tục đưa học sinh trở lại nội dung môn học khi các thảo luận và ý tưởng của học sinh lệch khỏi trọng tâm của chủ đề.
- Họ đảm bảo học sinh tham gia vào các thực hành một chuyên ngành cụ thể. Trong trường hợp các môn STEM, điều này có nghĩa cho học sinh những dự án và thử tháp cho phép các em chủ động tư duy và làm việc như một nhà khoa học và toán học, không chỉ quan sát hay nghiên cứu cách nhà khoa học tư duy và làm việc.
Các nhà nghiên cứu này đã nhận xét, “[Nếu] chúng ta học hỏi bất kỳ điều gì từ những nỗ lực cải cách trong qua khứ, đó là nếu chúng ta thất bại trong việc hỗ trợ giáo viên, nỗ lực thay đổi của chúng ta có khả năng sẽ thất bại. Tại sao? Bởi vì giáo viên và việc giảng dạy là chìa khóa để chuyển hóa những gì xảy ra với trẻ em ở trường học.”
Vì lý do này, phát triển chuyên môn sâu, liên đa chiều, chất lượng cao là yếu tố thiết yếu quyết định thành công của các hạt áp dụng PBL như một chiến lược giảng dạy khoa học. Trong tâm là giúp đỡ các giáo viên học để trở thành các nhà dẫn dắt việc học hơn là vai trò có thẩm quyền truyền thống trong việc dạy học lấy giáo viên làm trung tâm.
Tác động của Phương pháp Tiếp cận Dựa trên Dự án đối với Giảng dạy Khoa học
Các lợi ích của phương pháp tiếp cận học tập theo dự án được triển khai một cách thành công đối với học sinh là vô số, giải quyết một số vấn đề sâu xa nhất của hệ thống giáo dục Hoa Kỳ ngày nay – thiếu sự tham gia của học sinh vào việc học, công bằng – đặt biệt là công bằng trong khoa học – và sự chia rẽ sâu sắc về thành tích giữa các hạt được phục vụ tốt và không được phục vụ đầy đủ, mất mát kiến thức , thử thách đối với người học đa ngôn ngữ, học sinh gặp khó khăn, và các học sinh có khả năng khác nhau do tình trạng khuyến tật, giáo viên phải cạnh tranh với sức hút từ các thiết bị kỹ thuật số và mạng internet, và nhu cầu của các hạt trong việc chứng minh thành tích thông qua các bài kiểm tra chuẩn hóa tại cả cấp bang và quốc gia.
Các lợi ích được thúc đẩy bởi những người ủng hộ PBL là:
PLB rất hấp dẫn, khơi dậy sự hứng thú của học sinh và đòi hỏi học sinh tham gia chủ động vào công việc, áp dụng các kỹ năng tư duy phản biện và tương tác với bạn học, đồng thời tư duy sáng tạo để giải quyết vấn đề. Vì giáo viên lựa chọn các dự án dựa trên các vấn đề thực tế, thường từ môi trường vật lý và chính trị của họ, các hoạt động PBL thường phù hợp với học sinh với một loạt hoàn cảnh và sự hứng thú khác nhau.
PBl giúp bồi đắp các kỹ năng thế kỷ 21 mà học sinh cần để thành công ở các môn học khác tại trường, đại học, công việc, và cuộc sống trưởng thành. Các kỹ năng mà các em học thông qua PbL được chuyển hóa sang các lĩnh vực khác. Tư duy thiết kế, truy vấn, làm việc nhóm, nghiên cứu khắt khe và các kỹ năng phân tích, kỹ năng diễn thuyết và thuyết trình là một số ít các kỹ năng sẽ phục vụ tốt cho các em, bất kể trên con đường học thuật hay sự nghiệp khi trưởng thành.
Học sinh học và thức thành các hành vi làm việc nhóm quan trọng của thế kỷ 21 như phối hợp, giao tiếp, thỏa hiệp, và lắng nghe chủ động. Các em cũng học quản lý dự án, phân công nhiệm vụ, và có trách nhiệm lẫn nhau để đạt được thành quả tốt cho đội nhóm.
Mang tính đa ngành, đòng thời khai thác và xây dựng các kỹ năng ở các lĩnh vực chuyên môn như nghệ thuật ngôn ngữ, toán học, khoa học, và khoa học xã hội, cũng như các kỹ năng xã hội cảm xúc và các kỹ năng phối hợp. Tất cả những điều này phản chiếu cuộc sống thực, ở cả nơi làm và học viên, và chuẩn bị cho học sinh sống trong thế giới rộng lớn hơn.
PBL đã được chứng minh là thu hẹp khoảng cách thành tích đối với học sinh thuộc nhóm dân số không được phục vụ đầy đủ và ở các hạt có thành tích thấp (xem thêm ở nghiên cứu dưới đây). Bởi vì cách tiếp cận của nó có tính tương tác, trực tiếp và nhấn mạnh và sự phối hợp và làm việc nhóm, nó cũng được tin là có lợi cho những học sinh là người học đa ngôn ngữ hoặc có các phong cách học tập khác nhau, chẳng hạn như người học bằng thị giác hoặc vận động.
Học sinh xây dựng năng lực sáng tạo cho bản thân để vượt qua những vấn đề khó, thiếu cấu trúc, và mở, phản chiếu thế giới thực và chuẩn bị cho các em vào môi trường học thuật và làm việc. Vì các em phải cân nhắc các giả định và ràng buộc của kịch bản khi các em đóng khung vấn đề, các em học để tự mình lên cấu trúc cho một vấn đề, nâng cao khả năng bản thân để chuyến hóa việc học từ bối cảnh này sang các bối cảnh khác.
Học sinh tích lũy kinh nghiệm chủ động và có trách nhiệm với việc học của chính mình. Khi các em được thúc đẩy để sử dụng nghiên cứu, sự sáng tạo, và tư duy phản biện ở trình độ cao hơn, các em phát triển “ý chí” và những kỹ năng khác áp dụng trong cuộc sống học thuật và công việc tương lai.
Nghiên cứu Hỗ trợ Học tập theo Dự án
Ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu học thuật chứng minh những tuyên bố này. Với mức độ thay đổi mà PBL đòi hỏi ở các chiến lược giảng dạy và quản lý lớp học, các nhà nghiên cứu đã và đang điều tra xem liệu phương pháp tiếp cận này đem đến các lợi ích có thể đo lường được cho học sinh, hoặc giải quyết một số vấn đề cấp bách trong giáo dục ngày nay như đề cấp ở trên.
Đặc biệt, nghiên cứu gần đây ở Đại học Michigan đã phát hiện rằng việc triển khai PBL – bao gồm nhấn mạnh mạnh ẽm vào phát triển chuyên môn cho giáo viên và nhất quán với các tiêu chuẩn NGSS – ở các lớp tiểu học có một tác động mạnh mẽ và lâu dài đến thành tích đọc và khoa học cũng như các khí cạnh về học tập xã hội – cảm xúc. Các nhà nghiên cứu đã nhận xét,
Sự cải tiến này [trong kiến thức khoa học] về trình độ đọc là đáng chú ý bởi vì nó cho thấy học tập theo dự án nghiêm ngặt kết hợp với học tập chuyên môn hiệu quả đối với tất cả người học. Ngoài ra, thực tế là những tác động đáng kể này vẫn tồn tại ở các trường học với các thành phần chủng tộc và dân tộc khác nhau và các tình trạng thu nhập của các hộ gia đình khác nhau và ở nhiều khu vực khác nhau của bang càng củng cố thêm tuyên bố rằng cách tiếp cận này có lợi cho tất cả học sinh.
Ở đầu kia của phổ tuổi, hai nghiên cứu lớn gần đây về các lớp Advanced Placement trung học phổ thông, được tài trờ bởi Nghiên cứu Giáo dục Lucas, chi nhánh chị em với Edutopia, cho thấy rằng học tập theo dự án là một chiến lược hiệu quả đối với tất cả học sinh, vượt trội hơn các chương trình giảng dạy truyền thống không chỉ đối với học sinh có hành tích cao, mà còn ở xuyên suốt các khối ớp, các nhóm chúng tộc và kinh tế xã hội.
Với nghiên cứu nghiêm ngặt hơn nữ tập trung vào tác động của PBL về công bằng, duy trì các kỹ năng qua thời gian, thành tích ở cá bài kiểm tra chuẩn hóa quan trọng, và các vấn đề ở điểm chạm trong giáo dục ngày nay, tác động của PBL với vai trò là một chiến lược giảng dạy khoa học và với vai trò là trọng tâm phát triển chuyên môn sẽ ngàng càng trở nên rõ ràng hơn.
Nguồn tham khảo: https://info.acceleratelearning.com/benefits-of-project-based-learning-in-science




