Ngay từ khi mới bước chân vào lớp 6, điều đầu tiên các con được học trong môn Văn-Tiếng Việt không phải là những khái niệm khó nhằn hay một lý thuyết khô khan. Cuốn sách mở ra cho con một câu hỏi hết sức gần gũi: “Vì sao người ta làm ra tác phẩm nghệ thuật?”. Giờ học Văn-Tiếng Việt tại The Dewey Schools thật lạ, bởi lẽ mỗi tiết học đều bắt đầu bằng những câu hỏi:
“Vì sao người ta làm thơ?”
“Vì sao con người ta lại kể chuyện?
“Vì sao người ta vẽ?
“Vì sao người ta chơi nhạc?”
Những câu hỏi tưởng chừng đơn giản ấy lại chính là cánh cửa đầu tiên dẫn các con vào hành trình khai mở tiềm năng của bản thân. Bởi khi tìm hiểu lý do con người sáng tạo nghệ thuật, các con đồng thời học cách hiểu cảm xúc, lắng nghe suy nghĩ, khám phá thế giới nội tâm và tìm hiểu tiếng nói riêng của mình. Mỗi bài học không chỉ đưa ra kiến thức mà còn gợi mở: Con cảm nhận thế nào? Con nghĩ gì? Con sẽ viết, sẽ kể, sẽ vẽ ra sao nếu đó là câu chuyện của chính con? Và chính từ những câu hỏi “vì sao” ấy, hành trình học Văn trở thành hành trình các con được khám phá, được tìm hiểu, được khai mở những tiềm năng vốn có của bản thân. Đó chính là câu chuyện về hành trình học Văn-Tiếng Việt đầy thú vị, hấp dẫn tại trường Phổ thông The Dewey Schools.
Tổng quan về chương trình học Văn-Tiếng Việt THCS
Trong chương trình Văn-Tiếng Việt Trung học cơ sở tại The Dewey Schools, học sinh sẽ được tiếp cận với bộ sách giáo khoa Cánh buồm, do nhà giáo Phạm Toàn sáng lập nên. Các tác giả sách giáo khoa, trên tinh thần “tổ chức sự trưởng thành của thanh thiếu niên cả dân tộc” đã khẳng định: Bậc Phổ thông cơ sở là bậc tạo nền tảng trí tuệ cho toàn thể trẻ em – sau chín năm học; trong đó một trí tuệ nền tảng bao gồm: (1) một phương pháp học đúng đắn, (2) một tư duy mạch lạc, (c) một năng lực hành dụng – hành trang và đạo lí vào đời của thiếu niên 15 – 16 tuổi. Ba yếu tố trên đã được thể hiện xuyên suốt các bộ sách giáo khoa, từ lớp sáu đến lớp chín, nhằm kiến tạo nên hình ảnh người học của thời đại mới: chủ động, tích cực, ham học hỏi, có khả năng thích ứng trước những thay đổi của thực tiễn đời sống.

Chương trình học phổ thông cơ sở chín năm là một thể thống nhất, trong đó được chia ra hai giai đoạn, tương ứng với hai nhiệm vụ nối tiếp nhau: đó là Văn và Tiếng Việt. Các nội dung học tập đều được liên kết một cách chặt chẽ, xuyên suốt từ Tiểu học đến Trung học cơ sở, nhằm kiến tạo nên hệ thống tri thức logic, mạch lạc, có sự tiếp nối và phát triển mạnh mẽ cho người học; cụ thể:
Trong chương trình Văn 6, học sinh sẽ học về cảm hứng nghệ thuật. Từ việc hiểu được về ngọn nguồn khởi sinh ra tác phẩm nghệ thuật, học sinh sẽ lần tìm các tín hiệu, học cách giải mã các tác phẩm cụ thể trong chương trình Văn 7 và Văn 8, cụ thể Văn 7 tập trung vào hệ thống các sáng tác trữ tình và kịch nghệ, còn Văn 8 đào sâu vào các sáng tác tự sự: từ tự sự truyền miệng đến tự sự đương đại. Trên tinh thần chương trình Văn Trung học cơ sở nói chung – tổ chức tạo năng lực con người trưởng thành cho người học, nội dung học tập Văn 9 đã mở rộng đến độ cấp độ năng lực nghiên cứu: học sinh thực hành nghiên cứu kiệt tác văn chương của Việt Nam và thế giới, từ đó củng cố cách tự học và tự giáo dục năng lực nghệ thuật của bản thân.

Đến với chương trình Tiếng Việt, học sinh sẽ được hồi cố và phát triển những kiến thức đã được từ Tiểu học về ngữ âm, từ vựng và cú pháp; trong đó: Tiếng Việt 6 sẽ giúp học sinh tìm hiểu về lịch sử ghi âm chữ viết của người Việt, từ đó biết trân trọng những nỗ lực của ông cha trong việc tạo ra bộ chữ viết riêng của dân tộc; còn Tiếng Việt 7 tập trung vào việc cung cấp cho học sinh những tri thức về từ điển – từ vựng, củng cố kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho người học và giúp người học nhận ra được vẻ đẹp của ngôn ngữ tiếng Việt. Tiếp đến lớp 8, học sinh được mở rộng và nâng cao vốn ngôn ngữ thông qua việc tìm hiểu về các cách biểu đạt: từ ngôn ngữ khoa học, nghệ thuật đến chính trị xã hội. Từ những đường dẫn cơ bản về ngôn ngữ, người học đến năm lớp 9 sẽ được phát triển tư duy trừu tượng, thông qua việc tự học và nghiên cứu những phạm trù liên quan đến tư duy và ngôn ngữ như tư duy về môi trường sống, tư duy về cái đẹp, về tình yêu và cái chết,…
Văn-Tiếng Việt Trung học cơ sở- Hành trình khai mở tiềm năng
John Dewey – nhà cải cách giáo dục nổi tiếng người Mĩ tin rằng mỗi đứa trẻ đều sở hữu cho mình những tiềm năng vô hạn. Trong cuốn sách nổi tiếng “Dân chủ và giáo dục” của mình, John Dewey đã khẳng định: “Không cái gì có thể cản trở sự phát triển của đứa trẻ. Mục đích chủ yếu của nền giáo dục là tạo điều kiện cho việc phát triển đầy đủ và tự do về thân thể và trí tuệ của đứa trẻ.” Trên tinh thần đó, các chương trình học tại The Dewey Schools đều hướng đến mục tiêu đặt người học làm trung tâm, nhằm phát triển đầy đủ và tối đa tiềm năng vốn có của trẻ nhỏ; trong đó có chương trình Văn – Tiếng Việt.
Hành trình chiếm lĩnh tri thức
“Hành trình học tập giống như một bản đồ kho báu, trong đó mỗi đơn vị kiến thức là một manh mối dẫn bạn đến mảnh đất tiềm năng mà bấy lâu nay bạn chưa hề hay biết.”
Tại chương trình Văn-Tiếng Việt Trung học cơ sở, các đối tượng chiếm lĩnh tri thức được phân tách rõ thành hai mạch ngôn ngữ và văn học. Thông qua chương trình Văn, học sinh phát triển năng lực cảm thụ, đặc biệt là năng lực đồng cảm – điểm khởi phát, nảy sinh mọi loại hình nghệ thuật trong đời sống. Không chỉ biết cách giải mã tác phẩm một cách lí tính thông qua các đặc trưng loại hình trữ tình, tự sự; học sinh có cơ hội được đào sâu hơn vào những xúc cảm của người nghệ sĩ, biết đồng cảm trước nỗi lòng của nhà thơ, nhà văn qua từng câu chữ. Mỗi tiết học Văn tại The Dewey Schools đều bắt đầu những hoạt động khởi động khơi gợi cảm xúc. Chính những xúc cảm ban đầu đó khơi dậy trong các em niềm đồng cảm với nội dung học tập, khơi dậy hứng thú và sự say mê tìm tòi; từ đó kiến tạo nên năng lực cảm thụ văn chương của mỗi người học. Hiểu rõ những tác động mạnh mẽ của xúc cảm tới tinh thần, động lực học tập của người học; chương trình Văn Cánh Buồm đã dẫn dắt học sinh từ những say mê, khao khát tìm tòi bước đầu với bài học đến tinh thần tư học, tự nghiên cứu, và cao hơn là phát triển năng lực cảm thụ văn học. Không phải bằng những lý thuyết khô khan hay những khái niệm khó nhằn, chương trình Văn Trung học cơ sở, trên tinh thần phát triển năng lực cảm thụ nghệ thuật của người học đã xây dựng một cách tiếp cận riêng, độc đáo, nhằm khơi dậy ở học sinh những hứng thú, đam mê dành cho môn học.

Việc lựa chọn và sử dụng các ngữ liệu văn học trong chương trình học đồng thời phản ánh mong muốn phát triển tối đa tiềm năng của người học. Các tác phẩm được chọn lựa vào chương trình đều đa dạng, phù hợp với đặc trưng lứa tuổi từng cấp học: vừa gần gũi lại vừa có chiều sâu và mang tính thách thức. Nếu sự gần gũi đảm bảo tính khả thi trong khả năng tiếp cận tác phẩm, tính có chiều sâu đem đến những xúc cảm dạt dào thì tính thách thức góp phần khơi dậy hứng thú, trí tò mò cùng khát vọng chiếm lĩnh tri thức của người học thông qua mỗi đơn vị bài học. Ví dụ, trong chương trình Văn 9, khi học sinh tiếp cận với kiệt tác Truyện Kiều; các em vừa cảm thấy gần gũi khi được tham gia các thực hành dân gian như đố Kiều, bói Kiều, đồng thời cảm thấy có hứng thú khi được tìm hiểu những giá trị sâu sắc của một tác phẩm được mệnh danh là kiệt tác văn học dân tộc. Bên cạnh đó, xuyên suốt các nội dung học tập từ lớp Sáu đến lớp Chín, có thể thấy hệ thống đa dạng các tác phẩm được sử dụng: từ các thể loại trữ tình đến kịch nghệ, từ kịch nghệ đến tự sự; từ trong nước đến ngoài nước.
Tiếp đến, thông qua chương trình Tiếng Việt, học sinh được bồi đắp và phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ. Câu hỏi được đặt ra xuyên suốt chương trình học Tiếng Việt Trung học cơ sở, đó là: Thế nào là am tường tiếng Việt? Thế nào là sử dụng tiếng Việt thành thạo? Các em đã và đang sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt mỗi ngày, nhưng đó là sự “biết” bằng kinh nghiệm, chưa phải là sự am tường tiếng nói bằng khoa học ngôn ngữ: Tiếng Việt ra đời khi nào? Sự ra đời của tiếng Việt có ý nghĩa gì? Ta cần sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt như thế nào? Giữa ngôn ngữ và tư duy có mối quan hệ gắn bó mật thiết như thế nào? Các em không chỉ biết nhận diện các yếu tố tiếng Việt thông thường như các từ loại, các dấu câu, biện pháp tu từ,… mà rộng mở hơn, các em được học về ngôn ngữ Tiếng Việt của dân tộc: từ cách thức ghi âm cho đến cách sử dụng từ ngữ để biểu đạt các ý niệm từ cụ thể đến trừu tượng trong đời sống. Tình yêu với ngôn ngữ mẹ đẻ, từ đó cũng được nảy nở ở trong lòng các em.
Tiềm năng chỉ khai mở khi được định hướng đúng đắn
“Học tập cũng giống như chèo thuyền vậy. Khua sai nhịp chèo, bạn mất nhiều sức mà chẳng đi được xa.”
Tuyên ngôn về phương pháp dạy học đã được nhóm tác giả Cánh Buồm khẳng định: “Đường lối sư phạm Cánh Buồm là LÀM MÀ HỌC – tức tổ chức việc làm cho người học tự thực hiện và tự rút ra những điều cần học.” Truyên ngôn trên thống nhất với quan điểm giáo dục trải nghiệm của John Dewey, từ đó đưa học qua việc làm trở thành phương pháp trung tâm trong các hoạt động học tập môn Văn-Tiếng Việt. Thay vì được cung cấp, trang bị một tri thức sẵn có, học sinh sẽ phải tự mình tham gia các hoạt động học tập để tìm lời giải đáp cho những câu hỏi các em đặt ra ở đầu tiết học. Ví dụ, khi cho học sinh tìm hiểu về một số đặc trưng ngữ âm của tiếng Việt Nam Bộ, giáo viên thay vì cung cấp sẵn những tri thức, đã tổ chức cho các em nghe video về tiếng Việt Nam Bộ, từ đó điền vào bảng “Con nghe thấy gì?” và “Con hiểu họ nói gì?”. Học sinh sẽ tự nghe, tự điền và tự đối chiếu sự khác biệt giữa hai cách ghi, từ đó nhận ra tiếng Việt Nam Bộ có sự xuất hiện của các phụ âm mới như /w/ (từ “qua” trong tiếng Việt Nam Bộ thường được phát âm thành từ “wa”).

Mọi đứa trẻ đều có cho mình tiềm năng vô hạn, nhưng những tiềm năng ấy bao giờ cũng ẩn khuất dưới dáng vẻ ngại ngùng, e dè. Thông qua những nhiệm vụ học tập yêu cầu học sinh trực tiếp trải nghiệm, đặt câu hỏi, tự mình tìm ra câu trả lời; người học có cơ hội được lên tiếng nói, được thỏa sức thể hiện trí tò mò, niềm khát khao chiếm lĩnh tri thức của bản thân. Học tập truy vấn bởi vậy trở thành một trong những phương pháp giảng dạy trọng tâm được ứng dụng trong chương trình học Văn – Tiếng Việt. Có thể nói, học tập truy vấn vẫn luôn được coi là đường lối sư phạm kinh điển, khai sinh từ phương pháp và quan điểm dạy học của triết gia Hy Lạp cổ đại Socrates: “Tự hỏi là sự khởi đầu của trí tuệ.”. Thông qua các tương tác hỏi đáp, học sinh được tham gia vào quá trình kiến tạo tri thức mới, tự mình đào sâu vấn đề, phát hiện các mối liên hệ giữa các hiện tượng trong đời sống và tự mình tìm ra lời giải cho những câu hỏi đã đặt ra trước đó. Thay vì tiếp nhận kiến thức một chiều từ lời giảng của giáo viên, các em trở thành đối tượng trung tâm của sự học, chủ động khám phá kiến thức thông qua cách đặt câu hỏi, thử nghiệm, phản biện và tự kiểm chứng kết quả mình tìm được. Chính hành trình tự hỏi – tự tìm – tự hiểu ấy giúp học sinh phát huy được tiềm năng vốn có, thúc đẩy các em chủ động cất lên những tò mò thẳm sâu của mình về mọi điều xung quanh.
Hành trình chuyển hóa tiềm năng thành tài năng thông qua các sản phẩm học tập
Bên cạnh học tập truy vấn, học qua dự án cũng là phương pháp dạy học được đặc biệt chú trọng. Howard Gardner, với lí thuyết đa trí tuệ cho rằng mỗi con người sẽ sở hữu cho mình các loại hình trí tuệ trội khác nhau; học sinh bởi vậy sẽ có em thuộc nhóm trí tuệ ngôn ngữ, lại có em thuộc nhóm trí tuệ không gian, trí tuệ âm nhạc,… Việc học tập thông qua dự án không chỉ đảm bảo học sinh được vận dụng những kiến thức đã học vào việc tạo ra một sản phẩm cụ thể, có tính thực tiễn mà còn cho thấy cách những tiềm năng khác nhau của người học được thể hiện thông qua sản phẩm học tập. Với môn Văn-Tiếng Việt, các dự án học tập bao giờ cũng là một phần quan trọng không thể thiếu.

Trong dự án Truyện Kiều, các em học sinh lớp 9 đã được thỏa sức bày tỏ những góc nhìn, suy nghĩ và cảm nhận của bản thân về tác phẩm được coi là kiệt tác văn học Việt Nam thông qua những sản phẩm đa dạng: từ bộ bài tarot được xây dựng dựa trên những nhân vật trong Truyện Kiều, những bài hát các em tự sáng tác, cảm thán về số phận nàng Kiều cho đến sản phẩm kịch nói với chủ đề “….”. Cùng tiếp cận một tác phẩm văn học, nhưng mỗi người học, thông qua các sản phẩm dự án khác nhau đã khẳng định được tiềm năng của bản thân bên cạnh việc phát triển và đào sâu hơn năng lực cảm thụ nghệ thuật. Những dự án văn học không chỉ bồi đắp năng lực cảm thụ nghệ thuật, mà còn mang tính thực tiễn, gắn bó chặt chẽ với địa phương và toàn cầu. Trong môn Tiếng Việt 7, sau khi tìm hiểu về các loại từ điển, học sinh sẽ bắt tay vào làm cuốn từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng của riêng mình. Các em sẽ được tự tay thực hiện tất cả các khâu của quá trình làm từ điển: từ biên soạn từ vựng theo thứ tự bảng chữ cái, cho đến soạn bìa, đánh số trang, làm mục lục, xây dựng hướng dẫn sử dụng cho người dùng. Khi bắt tay vào thực hiện các công tác đó – những việc mà bấy lâu nay các em chưa từng làm, chưa từng nghĩ sẽ có ngày mình được làm , các em sẽ thấy tiềm năng giấu kín của bản thân được khai mở.
Khi tiềm năng được khai mở
Văn-Tiếng Việt vốn không phải là một môn học dễ dàng bởi nó đòi hỏi người học không chỉ nắm kiến thức mà còn phải biết cảm, biết nghĩ và biết diễn đạt bằng chính tiếng nói của mình. Đây là môn học kết hợp giữa tư duy và cảm xúc, giữa khả năng phân tích logic và khả năng thấu cảm.

Nhưng đến với chương trình học Văn-Tiếng Việt tại The Dewey Schools, người học có cơ hội được tiếp cận với môn văn – môn học bấy lâu nay được coi là khó nhằn một cách thú vị, hấp dẫn. Tại The Dewey Schools, tiềm năng cảm thụ nghệ thuật cùng tiềm năng sử dụng ngôn ngữ của học sinh được phát triển một cách mạnh mẽ thông qua các hoạt động tự học, tự nghiên cứu, tự hiểu. Khi tiềm năng được đánh thức, người học môn Văn không chỉ giỏi viết, giỏi nói hơn; mà còn tư duy độc lập hơn, giao tiếp hiệu quả hơn và trưởng thành hơn trong cách nhìn nhận con người và cuộc sống. Đó chính là chân dung người học tại The Dewey Schools – chân dung người học trưởng thành, có khả năng tư duy độc lập, tự định hướng việc học và tự phát triển bản thân.
Bài viết được thực hiện bởi cô Nguyễn Vân Anh – Hội đồng Khoa học & Sư phạm The Dewey Schools




