Chúng ta thường nghe câu chuyện về nhu cầu học sinh phải học cách lập trình để sẵn sàng cho các lĩnh vực STEM và Kinh tế Thông ti. Nó là những gì chung ta nghe được suốt một thập kỷ qua. Tuy nhiên, có một bài viết hấp dẫn từ Báo Washington Post khám phá cách mà cái gọi là “kỹ năng mềm” có thể thậm chí còn quan trọng hơn bao giờ hết.
Trong nhiều năm, Google đã tập trung tuyển dụng các sinh viên khoa học máy tính giỏi nhất, những người xuất sắc trong lĩnh vực nội dung cốt lõi của họ, đưa ra giả thuyết rằng đổi mới sáng tạo đòi hỏi những bộ óc khoa học máy tính giỏi nhất trên thế giới. Nhưng khi họ kiểm tra giả thuyết này, họ đã sốc trước kết quả.
Theo bài báo:
“Năm 2013, Google đã quyết định kiểm tra giả thuyết tuyển dụng của mình bằng cách xử lý từng bit và byte dữ liệu tuyển dụng, sa thải, thăng chức được tích lũy từ khi công ty thành lập vào năm 1998. Dự án Oxygen khiến mọi người sốc bằng kết luận rằng, trong số tám phẩm chất quan trọng nhất của Google đối với người lao động, chuyên môn STEM đứng ở tận cuối cùng. Bảy phẩm chất xếp trên đầu để trở nên thành công ở Google đều là kỹ năng mềm: trở thành người huấn luyện giỏi; giao tiếp và lắng nghe giỏi; hiểu sâu sắc về người khác (bao gồm các giá trị và quan điểm khác nhau của người khác); có sự đồng cảm và hỗ trợ đối với đồng nghiệp; trở thành người tư duy phản biện và giải quyết vấn đề giỏi; có khả năng kết nối các ý tưởng phức tạp.”
Đừng hiểu sai ý tôi. Học sinh cần làm chủ các tiêu chuẩn nội dung. Nhưng khảo sát của Google đã chứng minh rằng nhiều giáo viên đã và đang nói suốt nhiều năm rằng cái gọi là “kỹ năng mềm” không mềm chút nào cả. Thật may mắn, khi học sinh tham gia vào PBL, các em phát triển những kỹ năng này và các ngành cần phát triển trong nền Kinh tế Sáng tạo.
Nhưng nó vượt xa kinh tế học. Khi học sinh tham gia vào PBL, các em trải nghiệm niềm vui học tập. Các em có thể đạt đến trạng thái sáng tạo và học được rằng có điều gì đó sâu sắc về sự sáng tạo. Các em trở thành những người có tư duy độc lập, tự định hướng.
10 điều Xảy ra Khi Học sinh Tham gia vào Học tập theo Dự án
Sau đây là một số xu hướng Tôi chú ý khi học sinh tham gia vào học tập theo dự án. Đây không phải là một nghiên cứu khoa học mà là những quan sát tôi nhận thấy từ các trải nghiệm của cá nhân mình. Tuy nhiên, hiện tôi đang thực hiện một đánh giá tài liệu lớn hơn về lợi ích của PBL. Tôi sẽ chia sẻ nó trong tháng sau. Nhiều ý tưởng trong video dưới được hỗ trợ bởi nghiên cứu (như kỹ năng mềm, tính “bám dính” của thông tin, và sự gia tăng vừa phải trong thành tích của học sinh).
#1: Học sinh học cách tham gia sự phối hợp có ý nghĩa
Khi học sinh tham gia vào PBL, các em thường có cơ hội làm việc trong các dự án phối hợp, ỏ đó các em làm việc độc lập để giải quyết vấn đề. Ban đầu, việc này thực sự là thử thách đối với tôi với tư cách là một giáo viên vì tôi ghét các dự án nhóm khi còn là học sinh. Tôi ghét làm hết tất cả mọi việc rồi nhìn từng người được hưởng công lao. Nhưng sau đó tôi nhận ra điều gì đó. Sự phối hợp không chỉ là một kỹ năng. Nó là kỷ luật. Nó là cái gì đó phải mất hàng năm để thực hành. Vì vậy, tôi bắt đầu áp dụng cấu trúc sẽ giúp đảm bảo rằng mọi học sinh đều tham gia vào các dự án phối hợp. Không phải lúc nào nó cũng hiệu quả nhưng dần dần, tôi thấy học sinh học được cách tham gia vào sự phối hợp có ý nghĩa.
Khi học sinh thực sự phối hợp trong PBL, các em học được các lên tiếng và lắng nghe. Các em học cách hỏi các câu hỏi sâu sắc, cách đóng góp cho đội nhóm, và cách đưa ra phản hồi cũng như tiếp nhận phản hồi có tính phản biện. Điều này dẫn tới điểm tiếp theo…
#2 Học sinh học cách nhìn nhận sắc thái và nhiều góc nhìn
Khi tôi thực hiện Dự án Ngày Lịch sử ở khối tám, tôi đã gặp những góc nhìn về sự tích hợp của bóng chày mà tôi chưa bao giờ trải nghiệm khi đọc sách giáo khoa. Điều tương tự xảy ra với các học sinh lớp tám của tôi. Khi các em đắm chìm trong môi trường PBL, các em được lội trong sắc thái của các góc nhìn khác nhau.
Giáo viên có thể khai thác ý tưởng này bằng cách đặc biệt yêu cầu học sinh cân nhắc các góc nhìn mới.Trong pha truy vấn ban đầu, nó có thể giúp học sinh tự hỏi nhiều câu hỏi và sau đó cùng chia sẻ các câu hỏi của các em. Khi các em tham gia nghiên cứu, nó có thể giúp yêu cầu học sinh tìm các nguồn từ các góc nhìn khác nhau và cố tình lội vào các sắc thái của các ý tưởng có thể có ích. Khi các em hình thành ý tưởng cùng nhau, bạn có thể sử dụng phương pháp tiếp cận động não có cầu trúc để khuyến khích các em xem xét các ý tưởng từ nhiều góc cạnh khác nhau.
#3 Các em trở thành những nhà tư duy phân kỳ
Các chương học tập theo dự án tốt nhất khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề từ một góc nhìn độc đáo. Điều này là trái tim của tư duy phân kỳ. Nó là khả năng khám phá vấn đề từ các góc độ khác, sử dụng tài liệu theo nhiều cách khác nhau, và cuối cùng trở thành những người đổi mới sáng tạo. Đây là khi các rào cản sáng tạo xuất hiện. Giáo viên thường phải làm việc với các nguồn lực hạn chế hoặc lịch trình dày đặc. Họ phải hack các tiêu chuẩn để gắn chúng vào các chương học PBL. Nhưng trong quá trình đó, họ đang giúp học sinh tư duy vượt ngoài khuôn mẫy bằng việc “tư duy trong khuôn mẫu.” Dưới đây là điều tôi muốn nói:
Khi học sinh học để “tư duy trong khuôn mẫu”, các em thực hành kiểu tư duy phân kỳ mà các em cần trong tương lai. Đây là kiểu tư duy không thể thay thế được bởi trí thông minh nhân tạo hoặc các máy móc tự động hóa.
#4: Các em học quản lý dự án.
Khi tôi nói với những người ở các lĩnh vực kinh doanh, nghệ thuật, STEM, tôi thường nghe mọi người đề cập rằng họ ước họ đã học được cách quản lý dự án khi họ còn trẻ. Nếu chúng ta muốn học sinh tư duy như một nhà nghệ thuật, khởi nghiệp, và kỹ sư, các em cần cơ hội tham gia vào quản lý dự án. Khi học sinh có đẩy đủ sự sở hữu của quá trình dự án, các em học cách tham gia vào quản lý dự án. Ở đây, các em có thể thiết lập mục tiêu, theo dõi tiến độ, điều chỉnh, và phản ánh việc học của các em.
Quản lý dự án không chỉ là thiết lập lịch trình. Nó là ý tưởng thực hiện theo kế hoạch của ban và tiếp tục với các nhiệm vụ ngay cả là khi không có ai giám sát bạn. Nó là những gì xảy ra khi bạn học các thiết lập các mục tiêu thực tế, có ỹ nghĩa và chia nhỏ nó thành các nhiệm vụ.
Nếu bạn muốn xem quá trình quản lý dự án dành cho học sinh, vui lòng điền vào mẫu dưới đây và tôi sẽ gửi email cho bạn.
#5: Các em phát triển tư duy của nhà sáng tạo
Một trong những điều bi thảm nhất mà tôi nghe được học sinh nói là “Tôi không phải kiểu người sáng tạo.” Tôi không tán thành. Tôi không tin rằng có cái gọi là “kiểu sáng tạo” ở đây. Chúng ta đều sáng tạo. Mỗi người trong chúng ta. Và PBL là một cơ hội tuyệt vời cho học sinh để sử hữu toàn bộ quá trình sáng tạo, dẫn tới một tư duy của người sáng tạo khi mà các em có thể tư duy như một nhà thiết kế, nghệ thuật, và kỹ sư. Khi điều này xảy ra, học sinh có thể nắm bắt một khái niệm rộng hơn về sự sáng tạo và trân trọng những đóng góp sáng tạo của những người xung quanh các em.
Chúng ta thường nghe thấy rằng các học sinh hiện tại của chúng ta sẽ làm những công việc đang chưa tồn tại ngay lúc này. Nhưng có một thực tế khác rằng: các học sinh hiện tại của chúng ta sẽ là những người tạo nên những công việc đó.
Khi học sinh làm việc thông qua PBL, các em có thể trải nghiệm một loạt các tư duy sáng tạo. Các em học cách tư duy như một nghệ sinh nhưng cũng tư duy như một kỹ sư hoặc một hacker. Vào một thời điểm nào đó, các em có thể làm một nguyên mẫu trong một dự án kỹ thuật hoặc tham gia vào viết kiến thức thông tin cho một dự án xuất bản. Qua thời gian, các em thấy rằng công việc sáng tạo là liên ngành. Và điều này cuối cùng dẫn tới một tư duy sáng tạo, ở đó các em học cách nhìn thế giới khác đi và tìm các giải pháp cho các vấn đề phức tạp. Điều này dẫn tới điểm tiếp theo…
#6 Các em trở thành những người giải quyết vấn đề và nhà tư duy phản biện
PBL khuyến khích học sinh giải quyết các vấn đề phức tạp bằng việc tham gia truy vấn, nghiên cứu, và hình thành ý tưởng. Đây là kiểu làm việc mà bạn không hoàn thành khi nộp bài hoặc làm phiếu bài tập. Nó yêu cầu học sinh xem xét vấn dề từ nhiều góc cạnh và đôi khi thậm chí là xử lý nhiều hệ thống để giải quyết những vấn đề phức tạp.
Không chỉ là các em đang giải quyết vấn đề mà các em còn đang đưa vấn đề lên một tầm cao mới và đang thực sự tạo ra giải pháp. Vậy, các em có thể thấy được việc giải quyết vấn đề thực sự kết nối với bối cảnh thực tế. Tôi nhớ rằng khi chúng tôi đang làm dự án Ngôi nhà Tí hon và một học sinh đã nói, “Giờ thì em hiểu rồi. Em hiểu tại sao mọi người cần biết suy luận tỷ lệ.” Học sinh đó đã cần một vấn đề phức tạp, bắt nguồn từ một trải nghiệm thực tế, để hiểu được khái niệm đó.
Lưu ý rằng điều này không phải lúc nào cũng hiệu quả. Có những khoảnh khắc nó trở nên khó chịu. Tuy nhiên, đó cùng là một phần của quá trình giải quyết vấn đề. Học sinh có cơ hội thất bại để trưởng thành. Điều này dẫn tới điểm tiếp theo…
#7: Các em phát triển tư duy lặp đi lặp lại.
Học tập theo dự án bao gồm một pha để điều chỉnh lại. Trong một số trường hợp, nó liên quan nhiều hơn đến phản hồi và điều chỉnh dù các dự án khác đòi hỏi kiểm thử và điều chỉnh. Nhưng ý tưởng thì đều như nhau. Học sinh kiểm thử, điều chỉnh, và lặp lại. Đây là một trong những lĩnh vực mà tôi thấy có sự khác biệt lớn giữa trường học (nơi bạn được chấm điểm một lần và tiếp tục) với cuộc sống (nơi bản liên tục cải tiến và lặp lại). Tôi muốn học sinh học được cách tìm hiểu điều gì đang diễn ra, hiểu được thất bại là gì, và sau đó tạo nên một sự lặp lại tốt hơn. Nhưng điều này đòi hỏi phải hướng đến việc chấm điểm dựa trên sự thành thạo cũng như sự tự do được sai. Đối với những lời bàn tán về “các tiêu chuẩn cao”, tư duy lặp lại chỉ diễn ra khi học sinh có sự chểnh mảng. Thế nhưng, khi các em được phép để thát bại, các em có thể ải thiện công việc của mình mà phát triển sức bền.
#8: Các em có nhiều khả năng phát triển tư duy trưởng thành.
Tư duy lặp lại cuối cùng dẫn tới tư duy trưởng thành. Điều này trái ngược với trực giác nhưng cách tốt nhất để học sinh có được các tiêu chuẩn cao hơn đó là trải nghiệm sự cho phép được thất bại. Điều này không có nghĩa là chúng ta chấp nhận thất bại mà có nghĩa là chúng ta coi thất bại là một phần của quá trình học tập. Sau tất cả, không đạt được mục tiêu là vĩnh viễn và thất bại là tạm thời
Lưu ý rằng thất bại không phải điều gì vui vẻ. Nó thực sự tệ khi mọi thứ không thông suốt. Và nó là một sự nhắc nhở quan trọng. Đôi khi PBL không hề vui vẻ. Đôi khi, nó lại thực sự, thực sự khó chịu. Tôi đã có những học sinh khóc khi có gì đó không đạt được. Nó cũng không phải là vì điểm sso. Các em chỉ đơn giản là nhập tâm vào dự án của mình và muốn thành công. Nhưng cuối cùng, khi nó thành công, các em đã có thể phát triển một tư duy trưởng thành.
#9: Các em trở nên đồng cảm hơn.
Một trong số các phương pháp tiếp cận PBL là chúng ta se khám phá tư duy thiết kế, là phương pháp tập trung xung quanh ý tưởng về sự đồng cảm. Ở một số mô hình, sự đồng cảm là điểm bắt đầu. Còn lại, nó diễn ra ở pha nghiên cứu và hình thành ý tưởng. Nhưng dù nó diễn ra khi nào, nếu học sinh định đưa sản phẩm của mình ra khán giả, các em cần thiết kế các sản phẩm xuất phát tự sự đồng cảm.
Đây là một trong số những lực vực vượt xa thế giới doanh nghiệp. Chúng ta có một cuộc khủng hoảng về sự đồng cảm ở US. Tôi thấy nó mỗi khi tôi lên Facebook. Mọi người nói chuyện với nhau và dễ dàng ném những lời lăng mà về phía người đối diện. Bị mắc kẹt trong sự phản âm của mình, họ đến một nơi mà họ bỏ lỡ nỗi đau người khác đang trải qua. Nhưng tôi nghĩ chúng ta có thể thay đổi điều này với tư cách là các nhà giáo dục khi chúng ta yêu cầu học sinh tham gia vào tư duy thiết kế được định hướng bởi sự đồng cảm.
#10: Các em tăng cường siêu nhận thức.
Lần đầu tiên khi tôi thấy vòng tròn siêu nhận thức, tôi đã nghĩ, “Ôi trời, cái này dường như rất giống với các khía cạnh của PBL.” Đó là vì PBL khuyến khích học sinh lập kế hoạch theo dõi, và phản ánh xuyên suốt toàn bộ quá trình.
Vì vậy, nếu chúng ta muốn điều này cho học sinh, các em cần làm việc theo dự án. Những dự án đích thực. Kiểu dự án mà các em sở hữu được. Và cuối cùng, điều đó đòi hỏi một giáo viên sẵn lòng thực hiện bước nhảy vọt và biến PBL thành hiện thực.
Nguồn tham khảo: https://spencereducation.com/10-things-happen-students-engage-project-based-learning/




