Tư duy thiết kế và học tập theo dự án

Học tập theo dự án và tư duy thiết kế đều đã trở thành những từ thông dụng trong bối cảnh giáo dục. Nhưng ngoài sự thông dụng, cả PBL và tư duy thiết kế đều có lịch sử phong phú kéo dài hàng thập kỷ. Cả hai phương pháp đều cung cấp các khuôn khổ thực tế cho giáo viên đang tạo ra các dự án đích thực cho sinh viên của mình. Vậy, mối quan hệ chính xác giữa PBL và tư duy thiết kế là gì? Khi nào và làm thế nào chúng ta nên sử dụng từng phương pháp? Có lựa chọn nào tốt hơn cho sinh viên của chúng ta không? Trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá ý nghĩa của việc tìm ra sự trùng lặp giữa PBL và tư duy thiết kế bằng cách coi học tập theo dự án là khuôn khổ sư phạm và tư duy thiết kế là khuôn khổ sáng tạo.

Trao Quyền cho Sinh viên Lên tiếng và Lựa chọn

Điều gì xảy ra khi giáo viên thiết kế các dự án cho phép sinh viên lên tiếng và lựa chọn? Sinh viên thấm nhuần tư duy người tạo lập. Các em định nghĩa bản thân là các nhà phát sinh và sáng tạo. Các em học hỏi để chấp nhận những rủi ro sáng tạo. Ở đây các em thử nghiệm và tham gia vào tư duy lặp đi lặp lại. Khi điều này diễn ra, các em thuấn nhuân tư duy trưởng thành và trở nên kiên cường. Các em trở thành các nhà giải quyết vấn đề và người tư duy hệ thống. Các em trở thành các nhà tư duy khác biệt – tư duy vượt ra ngoài khuôn khổ. Các em sử

dụng sự ràng buộc sáng tạo để tìm gia những cách sử dụng nguyên bản của vật liệu. Ở đây, các em khám phá ra rằng khác biệt cũng là điều bình thường. Thường thì sinh viên thấm nhuấn sự tò mò và tự hỏi. Các em trở thành nhà khám phá nỗ lực tìm kiếm thông tin và tư duy phản biện. Các em trưởng thành với sự đồng cảm sâu sắc hơn khi các em thiết kế các sản phẩm có ý nghĩa mà các em đưa ra cho thế giới.

Ở cấp độ học thuật, sinh viên tham gia sâu và nhiều hơn và thông tin được ghi nhớ. Thường có sự gia tăng thành tích của sinh viên. Đồng thời, các em học được các kỹ năng chính như là quản lý dự án, phối hợp, và giao tiếp. Thực sự, những dự án này sẽ chuẩn bị cho sinh viên nền kinh tế sáng tạo. Nhưng quan trọng hơn, các dự án này trao quyền cho sinh viên để có một cuộc sống sáng tạo. Ở đây, các em thấy rằng sáng tạo là phép màu. Chúng ta biết rằng có một sự thiếu hụt thời gian ở các trường học. Tài liệu có thể khan hiếm. Đôi khi bạn mắc kẹt với một sơ đồ chương trình giảng dạy dày đặc. Nhưng khi bạn, là một giáo viên, trao quyền cho sinh viên lên tiếng và lựa chọn, thì các em sẽ trở thành các nhà tạo lập làm thay đổi thế giới.

Nhưng làm thế nào để chúng ta tận dụng tối đa học tập qua dự án khi chúng ta có những thời hạn gấp rút, một bộ tiêu chuẩn để dạy, và các nguồn lực hạn chế? Một giải pháp là pha trộn học tập qua dự án với tư duy thiết kế. Bạn có thể nghĩ về PBL như một khung sư phạm và tư duy thiết kế như một khung sáng tạo. Khi điều này diễn ra, bạn sẽ có PBL theo Thiết kế. Đó là một ý tưởng mà tôi khám phá trong video phác thảo mới nhất của mình:

Trước khi đào sâu hơn về sự trùng lặp, hãy xem xét học tập theo dự án và tư duy thiết kế một cách riêng biệt

PBL là Khung Sự Phạm

Học tập theo dự án không hẳn là một khái niệm mới. Thực tế, không ai hoàn toàn chắc chắn học tập theo dự án đã bắt đầu ở đâu và khi nào. Suzie Boss kết nối nó với Khổng Tử, Aristotle, và Socrates. Những người khác thấy gốc rễ của PBL ở Rousseau trong Emile. Các thành tố của PBL xuất hiện trong khái niệm học tập thông qua dự án của John Dewey (1897) và sau đó là “phương pháp dự án” của Heard Kilpatrick 1980. Tuy nhiện, cũng có các thành tốt mạnh mẽ của PBL (khán giả đích thực, học qua việc làm, học tập truy vấn) cũng đã và đang tồn tại trong giáo dục nghề nghiệp và các trường dạy nghề.

Theo công cụ Ngram của Google, một công cụ theo dõi tần suất của các thuật ngữ trong các tài liệu được công bố, cụm từ “học tập theo dự án” lần đầu tiên trở nên phổ biến là vào đầu nhưng năm 1990 và tiếp tục biết đến rộng rãi hơn trong vài thập kỷ vừa qua. Điều này cho thấy rằng PBL không chỉ là một trào lưu nhất thời. Vâng, nó đang ngày càng phổ biến, những cũng đã và đang được hình thành từ hàng thập kỷ.

Với sự phát triển của tự động hóa, trí thông minh nhân tạo, và học tập máy móc, nhiều trường học đã tìm đến học tập theo dự án như mà một cách để phát triển các kỹ năng mềm thiết yếu, cũng như công dân kỹ thuật số. Học tập theo dự án đưa ra một cách để phát triển những kỹ năng quan trọng này đồng thời cũng nắm vững nội dung ở cấp độ sâu hơn. Có một số nghiên cứu mới hấp dẫn về cách mà PBL đích thực có thể dẫn dắt để tăng các thành tích học thuật.

Học tập theo dự án không phải là một lý thuyết học tập chính thức. Thay vào đó, nó phù hợp với phạm trù rộng hơn của chủ nghĩa kiến tạo và có thể là chủ nghĩa kết nối. Nó giống một khung sư phạm hơn, bởi vì nó là một cách khác để xây dựng và tổ chức các bài học. Video tiếp theo alf một bài học cơ bản nhanh về học tập theo dự án như một khung sư phạm.

Tuy nhiên bất chấp sự phổ biến của học tập theo dự án,thuật ngữ này dường như có vẻ hơi mơ hồ. Thứ nhất, rất dễ nhầm lần gữa học tập theo dự án, học tập theo vấn đề, và học tập truy vấn bởi vì mỗi mô hình đều có một thử thách, một sản phẩm hoàn thành, và quá trình truy vấn liên tục. Hơn nữa, có nhiều mô hình học tập theo dự án khác nhau. Nhiều giáo viên thích Mô hình Tiêu Chuẩn Vàng PBL Việc làm nhưng tôi thực sự thích Mô hình Học tập theo dự án Chất lượng cao. Tuy nhiên, những người khác thích các mô hình PBL khác nhau do các tổ chức, các viện giáo dục đại học và sau đại học, thậm chí là các doanh nghiệp phát triển. Nếu bạn mới biết đến PBL, bạn có thể muốn khám phá các mô hình khác nhau và xem cái nào phù hợp nhất với bối cảnh lớp học của bạn. Thật lòng mà nói, có nhiều sự trùng lặp giữa hầu hết các mô hình.

Trong khi mỗi một mô hình học tập theo dự án là khác biệt, sau đây là một số thành phần bổ phiến trong các mô hình:

  • sự khiêu khích, thách thức hoặc câu hỏi
  • sự truy vấn của sinh viên
  • tính xác thực, tập trung vào việc kết nối với cộng đồng
  • các cuộc điều tra do sinh viên dẫn đầu dẫn đến việc xây dựng kiến ​​thức nội bộ
  • tiếng nói và sự lựa chọn của sinh viên trong quá trình và sản phẩm hoàn thiện
  • sự tự định hướng của sinh viên ở cấp độ cá nhân và nhóm nhỏ
  • sự hợp tác có ý nghĩa với sự phụ thuộc lẫn nhau được bồi đắp trong nhóm
  • quản lý dự án
  • sự phản ánh của sinh viên trong suốt quá trình
  • phản hồi và sửa đổi liên tục của bạn bè
  • một sản phẩm công cộng

Lưu ý cách tiếp cận này có thể khác biệt như thế nào so với các khuôn khổ sư phạm truyền thống hơn. Thông thường, PBL sẽ liên quan đến các thay đổi mô hình quan trọng mà chúng ta, với tư cách là nhà giáo dục, cần thực hiện. Điều này bao gồm sự thay đổi từ các dự án đỉnh cao sang một hệ thống mà học sinh học thông qua các dự án. Nói cách khác, bạn không lập một kế hoạch chương học truyền thống và kết thúc bằng một dự án. Thay vào đó, học sinh khám phá nội dung thông qua dự án. Một sự thay đổi khác hướng đến sự lựa chọn của học sinh trong thiết kế các dự án và tránh xa các hướng dẫn dự án rất chi tiết. Học sinh tham gia vào quá trình tìm hiểu có ý nghĩa thay vì sử dụng các câu hỏi được lập kế hoạch trước. Nó thường liên quan đến sự thay đổi từ giáo viên là người chỉ đạo việc học sang giáo viên là người tạo điều kiện.

Đôi khi việc tự hỏi, “Tôi đang làm điều gì tương tự như PBL?” lại có ích. Bạn có thể đang làm các dự án đỉnh cao, những dự án có thể chuyển hóa thành một chương học PBL đầy đủ. Bạn có thể có tính xác thực nhưng bạn có thể bổ sung thêm nhiều lựa chọn của học sinh vào các pha nghiên cứu và truy vấn. Đối với tôi, quản lý dự án đã là một trong các thành phần cuối cùng mà tôi thêm vào. Trong vài năm đầu tiên của PBL, tôi dã quản lý tất cả các dự án. Cuối cùng, tôi nhận ra rằng học sinh cần sở hữu quá trình quản lý dự án đó.

Tư duy Thiết kế là Khung Sáng tạo

Tư duy thiết kế là một cách tiếp cận lấy con người làm trung tâm để giải quyết vấn đề mang tính sáng tạo. Nó được sử dụng trong nghệ thuật, kỹ thuật, trong thế giới doanh nghiệp, và trong các không gian công dân và xã hội. Như PBL, có một chút tranh luận về nguồn gốc của tư duy thiết kế. Một số cho rằng nó đã bắt đầu từ những năm sáu mươi với Khoa học Nhân tạo. Những người khác lại chỉ ra rằng Tư duy thiết kế tập trung nhiều hơn vào quy hoạch đô thị và kiến trúc. Những người khác nữa lại chỉ ra tác phẩm của Robert McKim trong Trải nghiệm trong Tư duy Trực quan. Giống như tất cả những ý tưởng tuyệt vời, nó là một cuộc cách mạng, chịu ảnh hưởng bởi hàng nghìn con người. Chúng ta biết rằng công việc của xúng ta xung quanh Tư duy Thiết kế đã chịu tác động bởi những người như Tom và David Kelly, Tim Brown, John Maeda, Peter Rowe (cũng như các tổ chức như trường Stanford và IDEO). Để có một bài viết cơ bản tuyệt vời về lịch sử của tư duy thiết kế, hãy xem bài viết của Jo Szczepanska với dòng thời gian tương tác. Trên thực tế, bà liên hệ nó với khái niệm khoa học thiết kế của Buckminster Fuller và phong trào thiết kế có tính phối hợp của Scandinavia. Điều quan trọng ở đây là tư duy thiết kế tồn tại trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau, nghĩa là nó dễ dàng kết nối với mọi lĩnh vực môn học trong trường.

Trong khi có nhiều mô hình tư duy thiết kế, A.J. Juliani và tôi đã nhận ra nhu cầu đối với khung tư duy thiết kế thân thiện với học sinh được đo ni đóng giày riêng cho môi trường K-12. Cả hai chúng tôi đều dành hơn một thập kỷ sử dụng tư duy thiết kế và chúng tôi đã bổ sung thêm một vài đổi mới sáng tạo, bao gồm pha truy vấn, pha nghiên cứu, và pha ra mắt. Sau khi kiểm thử ở nhiều lớp học, chúng tôi đã hoàn thiện chu kỳ RA MẮT.

Nó bắt đầu với Nhìn, Nghe, và Học. Mục tiêu ở đây là sự nhận thức. Nó có thể là một quá trình tự hỏi, sự hiểu biết về một vấn đề, và quan sát một hiện tượng tự nhiên, hoặc là nhận thức về một vấn đề xã hội. Nhưng nó cũng có sự đồng cảm với một cộng đồng. Được khơi dậy bởi sự tò mò, học sinh duy chuyển sang pha thứ hai, ở đó các em hỏi hàng tá câu hỏi, những câu hỏi dẫn dắt đến việc hiểu biết về quá trình hoặc vấn đề thông qua một trải nghiệm nghiên cứu thực chất. Các em có thể cần đánh giá, tổ chức khảo sát, xem video, nghe podcast, tổ chức thí nghiệm, quan sát, phân tích dữ liệu, trò chuyện video với một chuyên gia hoặc tham gia nghiên cứu trực tuyến. Học sinh áp dụng kiến thức mới tiếp thu được vào các giải pháp tiềm năng. Ở pha này, các em định hướng các ý tưởng. Ở đây các em không chị động não, mà còn phân tích dữ liệu, kết hợp các ý tưởng, và tạo ra một khái niệm cho những gì mà các em sẽ tạo ra. Từ đó, các em Tạo một Nguyên mẫu, dù là công việc kỹ thuật số, sản phẩm vật lý, một dịch vụ, một hệ thống, hoặc một sự kiện. Tiếp theo, các em Đánh dấu Cái gì đang Hiệu quả và Sửa Những cái Thật bại. Ở đây, các em xem quá trình sửa đổi như một thí nghiệm lặp đi lặp lại đầy đủ ở đó mỗi một lỗi sai đưa các em càng ngày càng đến gần hơn với thành công. Sau đó, khi hoàn thành, nó sẵn sàng ra mắt một khán giả. Ở pha ra mắt này, học sinh chia sẻ công việc của mình với thế giới. Sau đó, dựa trên phản hồi của khán giả, các em chuyển sang bước lặp lại mới, ở bước này các em có thể Nhìn, Nghe, và học một lần nữa.

Sự giống nhau của PBL và Tư duy Thiết kế

Khi tôi mới bắt đầu hành trình học tập theo dự án, tôi đã theo mô hình PBL được lên cấu trúc lỏng lẻo. Mô hình cụ thể này tránh sử dụng các pha cụ thể trong một dự án và thay vào đó tập trung vào các ý tưởng như tính xác thực, truy vấn liên tục, và phản ánh. Trong khi tôi thích cách tiếp cận đó, tôi để ý thấy học sinh vẫn gặp khó khăn với công việc sáng tạo. Tôi đã nhận ra tôi cần một khung bao gồm các pha hoặc các bước cụ thể trong quá trình thiết kế. Tôi đã muốn học sinh thâm gia vào các dự án thiết thực theo cách phản chiếu quá trình thiết kế trong thế giới thực.

Đây chính là lý do cuối cùng tôi đã thấm nhuần tư duy thiết kế. Đó là một quá trình tập trung vào sự đồng cảm và sự nhận thức; lao động để hiểu ở cấp độ sâu sắc hơn các vấn đề mà con người đang đối mặt trước khi nỗ lực đưa ra ý tưởng và tạo giải pháp. Nó là một cách tiếp cận sâu hơn, chậm hơn khuyến khích nghiên cứu và sửa đổi. Không giống PBL, tư duy thiết kế bao gồm các pha hoặc các bước cụ thể trong một dự án. Điều này có thể bổ sung cấu trúc cần thiết còn thiếu từ các trải nghiệm theo dự án nhất định.

Đồng thời, học tập theo dự án còn cung cấp mô hình sư phạm cần thiếu cho tư duy thiết kế. Với PBL, chúng ta có các năng lực chính, giao thức cần thiết, và các thành tốt thiết kế nhất định mà chúng ta có thể sử dụng khi chúng ta thiết lập các kế hoạch bài học. Nếu tôi nỗ lực sử dụng tư duy thiết kế mà lại thất bại khi phối hợp với PBL, học sinh sẽ không học được nội dung ở mức độ sâu sắc. Nói cách khác, PBL cung cấp các thành tố cho quá trình học tập còn tư duy thiết kế cung cấp các thành tố cho quá trình mang tính sáng tạo.

Vì vậy nếu tôi muốn sử dụng cả hai khung này, làm thế nào để thực sự làm được? Một nơi tuyệt vời để khởi đầu là hỏi liệu trải niệm học tập theo dự án có phù hợp với tư duy thiết kế không.

Một số dự án PBL có thể hiệu quả hơn với quá trình kỹ thuật, quá trình truy vấn, và một quá trình không phụ thuộc có kết mở (tư duy Giờ Thần đồng), hoặc Phương pháp Khoa học. Tư duy thiết kế có xu hướng phù hợp khi bạn có một khán giả thực thụ nơi bạn có thể đặt trọng tâm dự án vào sự đồng cảm của học sinh. Nếu tư duy thiết kế phù hợp với PBL của bạn, thì bạn có thể bắt đầu lên kế hoạch.

Bạn có thể muốn tổ chức dự án của mình theo các pha tư duy thiết kế. Ở đây, bạn lập kế hoạch cho từng pha của dự án để kết nối với từ pha trong quá trình tư duy thiết kế. Tiếp theo, bạn có thể sử dụng học tập theo dự án như một danh mục các thành phần cụ thể mà bạn sẽ cần xuyên suốt dự án đó. Ví dụ, hãy tự hỏi, “Liệu cái này có thiết thực không?” hoặc “Học sinh có tiếng nói, lựa chọn, và tự định hướng ở đây không?” Bảng dưới đây thể hiện sự trùng lặp trông như thế nào.

Các thành tốt tư duy thiết kế Các thành tố PBL PBL theo Thiết kế
Nhìn, nghe và học Một sự khiêu khích, thách thức hoặc câu hỏi

Tính xác thực, tập trung vào việc kết nối với cộng đồng

Trong giai đoạn Nhìn, Nghe và Học này, học sinh bắt đầu bằng một thử thách hoặc câu hỏi tập trung vào một cộng đồng cụ thể. Đây là điểm khởi đầu đích thực liên quan trực tiếp đến cộng đồng và thường bao gồm sự đồng cảm.
Hỏi hàng tá câu hỏi Học sinh truy vấn

Các cuộc điều tra do học sinh dẫn dắt dẫn đến việc xây dựng kiến ​​thức nội bộ

Tiếng nói và sự lựa chọn của học sinh trong quá trình và sản phẩm hoàn thành

Trong giai đoạn Hỏi Hàng tá Câu Hỏi này, học sinh phát triển các câu hỏi thúc đẩy cụ thể, câu hỏi nghiên cứu và câu hỏi thiết yếu. Các em có thể thực hiện cấu trúc Biết/Cần biết cụ thể của PBL. Ở đây, các em bắt đầu quá trình tìm hiểu bằng việc lên tiếng và lựa chọn về những câu hỏi các em muốn trả lời.
Hiểu quá trình hoặc hiểu vấn đề Học sinh truy vấn

Tính xác thực, tập trung vào việc kết nối với cộng đồng

Các cuộc điều tra do học sinh dẫn dắt dẫn đến việc xây dựng kiến ​​thức nội bộ

Tiếng nói và sự lựa chọn của học sinh trong quá trình và sản phẩm hoàn thành

Sự phản ánh của học sinh trong suốt quá trình

Sự tự định hướng của học sinh

Trong giai đoạn Hiểu quy trình hoặc hiểu vấn đề này, trọng tâm là sự truy vấn của học sinh. Ở đây, học sinh tham gia vào nghiên cứu thực tế do học sinh thúc đẩy, kết nối với cộng đồng. Các em có thể thực hiện đánh giá nhu cầu, phỏng vấn chuyên gia hoặc thực hiện khảo sát. Ở đây, các em nên lên tiếng về những câu hỏi các e đặt ra, những câu hỏi các em trả lời và cách các em tổ chức nghiên cứu của mình. Lưu ý rằng những cuộc điều tra do học sinh dẫn dắt này giúp học sinh xây dựng kiến ​​thức nội bộ. Là giáo viên, chúng ta có thể cải thiện điều này bằng cách lồng ghép những khoảnh khắc tự phản ánh.
Điều hướng các ý tưởng Tính xác thực, tập trung vào việc kết nối với cộng đồng

Tiếng nói và sự lựa chọn của học sinh trong quá trình và sản phẩm hoàn thành

Sự tự định hướng của học sinh

Sự phối hợp phụ thuộc lẫn nhau

Sau khi học sinh đã phát triển kiến ​​thức nền tảng sâu hơn, các em Điều hướng Ý tưởng. Ở đây, các em có quyền lựa chọn trong quá trình động não và lập kế hoạch cho dự án của mình. Đây là khởi đầu của quá trình quản lý dự án sâu hơn. Giáo viên có thể đưa các cấu trúc để ra quyết định phụ thuộc lẫn nhau vào trong giai đoạn này.
Tạo một nguyên mẫu Tính xác thực, tập trung vào việc kết nối với cộng đồng

Tiếng nói và sự lựa chọn của học sinh trong quá trình và sản phẩm hoàn thành

Quản lý dự án

Phản ánh của học sinh trong suốt quá trình

Tự định hướng của học sinh

Khi học sinh Tạo Nguyên mẫu, các em làm việc độc lập với nhau trong các nhóm có tính phối hợp. Thông thường, nhóm sẽ có một người quản lý dự án chính để đảm bảo toàn bộ nhóm đúng tiến độ. Giai đoạn này có xu hướng tự chỉ đạo cao ở cấp độ nhóm nhỏ và cá nhân.
Đánh dấu và sửa chữa Tính xác thực, tập trung vào việc kết nối với cộng đồng

Tiếng nói và sự lựa chọn của học sinh trong quá trình và sản phẩm hoàn thành

Quản lý dự án

Phản hồi và sửa đổi liên tục của bạn bè

Sự phản ánh của học sinh trong suốt quá trình

Sự tự định hướng của học sinh

Học sinh sử dụng phản hồi và sửa đổi liên tục của bạn bè khi các em Đánh dấu và Sửa chữa. Trong khi tập trung vào việc cải thiện sản phẩm, các em cũng tham gia vào quá trình tự phản ánh về quá trình này. Mục tiêu ở đây là quyền sở hữu và tự định hướng của học sinh đối với quá trình sửa đổi.
Ra mắt thế giới Tính xác thực, tập trung vào việc kết nối với cộng đồng

Tiếng nói và sự lựa chọn của học sinh trong quá trình và sản phẩm hoàn thành

Một sản phẩm công cộng

Sự phản ánh của học sinh trong suốt quá trình

Sự tự định hướng của học sinh

Học sinh xác định đối tượng và chiến lược tiếp thị của mình khi các em ra mắt thế giới. Mục tiêu là một sản phẩm công cộng theo cách thực sự chân thực.

Vì bạn lên kế hoạch cho các bài học cụ thể, bạn có thể đưa vào các giao thức từ PBL (bao gồm Các Câu hỏi Thúc đẩy, Cần Biết, Quản lý Dự án) nhưng cũng bao gồm tư duy thiết kế (Một ngày trong Cuộc sống, Đánh giá Nhu cầu, Giả định Thử thách). Lần thử đầu tiên có thể hơi vụng về nhưng không sao. Bạn càng kết hợp cả hai, bạn sẽ càng nhận thấy hai khung này kết hợp với nhau thực sự tốt. Cuối cùng, khi bạn kết hợp PBL và tư duy thiết kế, sự kết hợp này dẫn đến các dự án tốt hơn và học tập sâu hơn.

Nguồn tham khảo: https://spencereducation.com/pbl-by-design/

Tác giả bài viết

Bài viết liên quan